Tam thất

Tên thường gọi: Tam Thất, Sâm Tam Thất, Thổ sâm, Kim Bất Hoán

Tên tiếng Trung: Sơn tất (山漆), Kim bất hóan (金不换), Huyết sâm (血参), Sâm tam thất (参三七), Điền tam thất (田三七), Điền tất (田漆), Điền thất (田七).

Tên dược: Radix Notoginsing.

Tên khoa học: Panax notoginseng (Burk) F.H. Chen.

Họ: Araliaceae (Nhân sâm)

Category:

I. Mô tả cây:
– Tam thất là cây thân thảo, sống lâu năm. Lá mọc vòng 3-4 lá một, cuống lá dài 3-6cm, mỗi cuống lá mang từ 3-7 lá chét hình mác dài, mép lá có răng cưa nhỏ, cuống lá chét dài 0,6-1,2cm.
– Cụm hoa hình tán mọc ở đầu cành hoa. Có hoa đơn tính có hoa lưỡng tính cùng tồn tại. Lá đài 5, màu xanh. Cánh hoa 5, màu xanh nhạt. nhị 5, bầu hai hai ngăn. Quả mọng hình thận, khi chỉn có màu đỏ, trong có hai hạt hình cầu
– Củ Tam thất có hình búp măng tròn hoặc hình thoi, đầu trên hơi to, đầu dưới nhỏ dần. Bề mặt bên ngoài màu nâu hoặc be vàng, quen gọi là “đồng bì” (da đồng). Có vân dọc nhỏ đứt nối nhau, chỗ nào vân ít thì hơi có ánh quang. Các mắt vỏ nằm ngang, dài, hơi nhô lên, có vết đứt của rễ nhánh và ngân rễ chùm. Đỉnh ngọn phình to ra, có gốc cây còn sót lại, xung quanh đó có những cái tật nổi gồ lên rất rõ, quen gọi đó là “đầu sư tử”. Chất rắn chắc, không dễ gì bẻ gẫy, mặt cắt màu be đen hoặc màu vàng xám. Mùi nhẹ, vị đắng sau ngọt. Thông thường dùng tam thất dạng bột, có màu vàng xám. Loại nào thân to, thể nặng, rắn chắc, bề mặt nhẵn bóng, mặt cắt màu lục xám hoặc màu lục vàng là loại tốt.
– Cây tam thất có 3 cành, mỗi cành có 7 lá nên có tên gọi như vậy.
– Cây tam thất từ khi gieo đến lúc có hoa là 3 năm, từ 3 năm đến 7 năm tuổi cây mới có được dược tính tốt.
– Cũng có giải thích rằng: tên gọi Tam Thất ( 三七 ) mà ta vẫn sử dụng ngày nay bắt nguồn từ tên gọi gốc của nó là ( 山漆 ). Trong tiếng Hán “三七” và “山漆” đồng âm khác nghĩa. “山漆”
– “Sơn Tất”: được bắt nguồn từ những người đi rừng săn bắt, hái lượm xưa kia, khi họ lên non xuống suối, không may bị ngã bị thương, rách da, chảy máu,… họ chỉ cần đắp cây thuốc Tam Thất lên là đỡ sưng đau, ngừng chảy máu, nó làm lành vết thương thần kỳ tựa như keo như sơn – “漆” vậy.
II. Bộ phận dùng và phương pháp chế biến:
– Cuối hạ, đầu thu trước khi hoa nở hoặc mùa đông sau khi hạt đã chín thu họach. Chọn cây mọc trên 3 ~ 7 năm, đào móc lấy bộ rễ, bỏ sạch đất, cắt bỏ rễ nhỏ và gốc thân, phơi đến khô nửa, xát vò nhiều lần, sau đó phơi khô.
– Củ Tâm thất lấy vào mùa hạ, thu chắc đầy, phẩm chất khá tốt, gọi là Xuân thất; còn lấy vào mùa đông, hình nhỏ teo nhăn, chất lượng kém, gọi là Đông thất. Rễ nhánh thô cắt ra của nó gọi là Cân điều; nhỏ hơn là Tiễn khẩu tam thất; nhỏ nhất là Nhung căn.
– Tam thất trồng nhân tạo, trồng nhiều ở đồng ruộng, gọi là Điền thất.
– Giá trị thu mua căn cứ vào trọng lượng củ. người ta chia ra:
• Loại 1: 105-130 củ nặng 1kg
• Loại 2: 160-220 củ nặng 1kg
• Loại 3: 240-260 củ nặng 1kg
Cây tam thất còn được trồng ở Trung Quốc, Vân Nam, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Vân Nam trồng nhiều nhất và tam thất Vân nam được coi là tốt nhất
III. Thành phần hoá học
Năm 1937-1941 hai tác giả Trung Quốc Tiệu Thừa Cổ và Chu Nhiệm Hoàng đã nghiên cứu và lấy được 2 chất từ tam thất: saponin:Arasaponin A và Arasaponin B
Arasaponin A (C30H52O10) là một chất bột, dễ tan trong rượu metylic, etylic và amylic hơi tan trong nước, không tan trong ete và axeton, độ chảy 195-210oC, năng suất quay cực +23o, kết hợp với axit axetic cho một chất có tinh thể với công thức C30H45O10(CH3O)7 có độ chảy 256oC. Thuỷ phân bằng axit loãng sẽ cho arasapogenin A C17H30O5, đường và hai chất có tinh thể: một chất có độ chảy 244oC, một chất có độ chảy 252oC
Arasaponin B (C22H38O10) cũng là một chất bột dễ tan trong nước và rượu metylic, hơi tan trong rượu etylic và rượu amylic, độ chảy 190-200oC, độ quay cực -8o. Thuỷ phân bằng axit trong dung dịch rượu sẽ cho arasapogenin B C29H32O3 có độ chảy 247oC và đường trong đó có glucoza
Năm 1950 Hứa Thực Phương chiết được từ tam thất ba chất saponin: Saponin A C48H50O20 tan trong rượu amylic nóng và một saponin không tan trong rượu amylic nóng. Kết hợp với axit axetic khô kiệt sẽ được một chất có tinh thể C29H50O3(CH3CO) có độ chảy 216 oC.
IV. Tác dụng dược lý
Năm 1937, hai tác giả Triệu Thừa Cố và Chu Nhiệm Hoàng đã nhận xét thấy tính chất các saponin trong tam thất không giống các saponin thường: rất ít độc đối với cá: thả cá vàng vào dung dịch 1/1.000 hoặc 1/500 sau 24 giờ không có hiện tượng trúng độc. Tiêm vào chó đánh mê bằng ete, 1-20mg arsaponin A hoặc B không thấy có sự thay đổi rõ rệt đối với huyết áp, với tim và hô hấp. Đối với khúc ruột cô lập của thỏ và tử cung cô lập của chuột bạch không có sự thay đổi
Đoàn Thị Nhu, Vũ Thị Tâm và Nguyễn Thị Thọ (thông báo dược liệu 1977, 4, 14-20, Hà Nội) đã nghiên cứu tác dụng của tam thất trên súc vật thí nghiệm và đã đi đến một số kết luận sau đây:
1. Rễ tam thất làm tăng khả năng hoạt động của súc vật thể hiện kéo dài thời gian bơi của lô chuột thử thuốc so với một lô đối chứng (những chuột này mang một cục chì nặng kẹp vào đuôi khi bơi để làm chóng mệt)
2. Rễ tam thất có tác dụng làm tăng sức đề kháng của súc vật đối với yếu tố độc hại như liều độc uabain với tim, nhiệt độ môi trường xung quanh quá cao hoặc quá thấp vượt ngoài giới hạn điều hoà của cơ thể
3. Rễ tam thất có khả năng kháng lại hiện tượng giảm lương prothrombin trong máu thỏ và giảm khả năng máu đông gây thực nghiệm với dicumarol
4. Rễ tam thất khác với nhân sâm không có tác dụng gây tăng huyết áp
5. Đối với tác dụng nội tiết:
• Rễ tam thất thí nghiệm trên chuột cống cái non với liều 5g/kg trong 6 ngày đã làm tăng trọng lượng tử cung một cách có ý nghĩa so với lô đối chứng, chứng tỏ tam thất có tác dụng hướng sinh dục tên súc vật cái
• Rễ tam thất thí nghiệm trên chuột cống đực non với liều 5g/kg uống trong 6 ngày không làm thay đổi một cách có ý nghĩa trọng lượng tinh hoàn và tuyến tiền liệt so với chuột đối chứng, chứng tỏ tam thất không có tác dụng hướng sinh dục trên súc vật đực với liều này.
• So sánh hoạt tính gây động đực của những rễ tam thất có độ tuổi khác nhau (3 năm và 5 năm) thì rễ tam thất 3 năm chỉ gây động đực 50% số súc vật thí nghiệm với liều 10g/kg trong khi rễ tam thất 5 năm gây cùng tác dụng này với liều 5g/kg. Điều này chứng tỏ rễ tam thất 5 năm có hoạt tính gây động dục 2 lần mạnh hơn rễ tam thất 3 năm.
• Nghiên cứu hoạt tính gây độc dục của lá và rễ phụ tam thất và căn cứ vào những liều có tác dụng gây động dục với tỷ lệ súc vật tương đương để so sánh thì thấy lá tam thất có hoạt tính yếu hơn khoảng 8-10 lần so với rễ củ tam thất 5 năm
Nhận xét những kết quả trên chúng tôi thấy rằng liều 5g/kg nghĩa là 250g cho người cân nặng 50kg trong một ngày là không có trong thực tế thường nhân dân chỉ dùng 2-6g/ ngày. Cho nên những dẫn liệu tên đây mới có giá trị tham khảo (Đỗ Tất Lợi)
Theo một tổng hợp khác thì: Sản phẩm từ Tam Thất có thể rút ngắn thời gian xuất huyết và đông máu, có tác dụng chống ngưng tập tiểu cần và làm tan huyết khối; có thể xúc tiến sinh sản nhiều công năng tạo tế bào thân máu (hemopoietic stem cell), có tác dụng tạo máu; có thể giáng thấp huyết áp, làm giảm chậm nhịp tim, đối với các lọai thuốc gây ra rối lọan nhịp tim đều có tác dụng bảo hộ; có thể giáng thấp lượng ô xy hao hụt và tỉ suất sử dụng ô xy của cơ tim, giãn mạch máu não, tăng cường lưu lượng mạch máu não; có thể đề cao công năng miễn dịch cơ thể, có tác dụng giảm đau chống viêm, chống suy lão v.v…; Có thể điều trị bệnh biến teo niêm mạc bao tử chuột lớn rõ rệt, và có thể nghịch truyền tăng sinh không điển hình và hóa sinh thượng bì ruột của tuyến thượng bì, có tác dụng chống u bướu (Trung dược học).
Bổn phẩm có thể rút ngắn thời gian đông máu, và tăng gia tiểu cầu mà có tác dụng cầm máu, hàm chứa saponin(e) A có tác dụng cường tim (Trung y phương dược học).
Dịch chiết Tam thất tiêm tĩnh mạch chó gây mê có thể gây ra giáng áp nhanh và kéo dài lâu [Tam thất nghiên cứu thực nghiệm sơ bộ đối với ảnh hưởng tuần hòan máu mạch vành (Viện y học Võ Hán, 1972)].
Trong những năm gần đây, tam thất còn được dùng để điều trị bệnh cơ tim, bệnh lượng mỡ cao trong máu, xuất huyết ở tiền phòng mắt, các bệnh tổng hợp về rối loạn chức năng ở khớp cổ bên dưới mang tai, các chứng bệnh do vận động quá mức sinh ra v.v…
V. Vị thuốc Tam thất
Tính vị: Vị ngọt, đắng và tính ấm.
Qui kinh: Can và vị.
Công năng: Cầm máu và giải ứ trệ. Hoạt huyết và giảm đau.
VI. Chỉ định và phối hợp:
Nhân dân coi tam thất là một vị thuốc cầm máu dùng trong các trường hợp chảy máu, bị đánh tổn thương, vì ứ huyết mà sưng đau. Ngày dùng 4-8g dưới dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột. dùng ngoài có tác dụng cầm máu tại chỗ
Tại những nơi trồng tam thất người ta coi tam thất là một vị thuốc bổ không kém nhân sâm, dùng thay nhân sâm.
– Xuất huyết nội tạng hoặc xuất huyết ngoài: Dùng riêng bột tam thất hoặc phối hợp với hoa nhuỵ thạch và huyết dư tán dưới dạng hoa huyết tán.
– Xuất huyết và sưng do chấn thương ngoài. Dùng tam thất dạng bột dùng ngoài. Liều dùng: 3-10g, 1-1,5g (dạng bột).
VII. Kiêng kỵ
– Trung dược đại từ điển: Phụ nữ có thai kỵ uống.
– Bản thảo tòng tân: Có thể tổn tân huyết, người không ứ trệ chớ dùng.
– Đắc phối bản thảo: Người huyết hư ói máu, chảy máu cam, huyết nhiệt vọng hành cấm dùng.
VIII. Những cấm ky khi dùng thuốc.
Thuốc này, người nào huyết hư nhưng không tụ huyết thì kiêng dùng, phụ nữ có thai kiêng dùng, người nào huyết hư, thổ huyết, đổ máu cam, huyết nhiệt an hành kiêng không dùng.
IX. Ứng dụng lâm sàng của Tam thất
1. Trị ói máu : Trứng gà 1 quả, đánh vỡ, hòa Tam thất bột 1 chỉ, nước ngó sen 1 ly nhỏ, rượu cũ nửa ly nhỏ, nấu cách thủy chín ăn vậy.(Đồng thọ lục)
2. Trị ho máu, kiêm trị ói máu, chảy máu cam, trị ứ huyết và nhị tiện ra máu: Hoa nhụy thạch 3 chỉ (nung tồn tính), Tam thất 2 chỉ, Huyết dư 1 chỉ (nung tồn tính). Tất cả nghiền bột mịn. Phân 2 lần, nước sôi uống. (Y học trung Trung tham Tây lục – Hóa huyết đơn)
3. Trị huyết lỵ: Tam thất 3 chỉ, nghiền nhỏ, nước vo gạo điều uống. (Tần Hồ tập giản phương)
4. Trị đại trường ra máu: Tam thất nghiền nhỏ, cùng rượu trắng nhạt điều uống 1, 2chỉ. Gia 5 phân vào thang Tứ vật cũng được. (Tần Hồ tập giản phương)
5. Sau sanh huyết nhiều: Tam thất nghiền nhỏ, nước cơm uống 1 chỉ. (Tần Hồ tập giản phương)
6. Trị mắt đỏ, vô cùng nặng: Tam thất căn mài nước thoa xung quanh. (Tần Hồ tập giản phương)
7. Trị vết thương do dao, thu miệng: Long cốt tốt, Da voi, huyết kiệt, Nhân sâm tam thất, Nhũ hương, Mộc dược, Giáng hương bột các vị lượng bằng nhau. Làm bột, uống với rượu ấm hoặc thấm lên. (Cương mục thập di – Thất bảo tán)
8. Cầm máu: Nhân sâm tam thất, Sáp trắng, Nhũ hương, Giáng hương, Huyết kiệt, Ngũ bội, mẫu lệ các vị lượng bằng nhau. Không qua lửa, làm bột. Đắp vậy. (Hồi xuân tập – Quân môn chỉ huyết phương)
Chú thích:
1. Mặc dù tam thất được trồng ở Hà Giang và Lào Cai từ lâu nhưng việc sử dụng trong nước hầu như rất hiếm. Phần lớn xuất sang Trung Quốc. Theo tài liệu cũ hàng năm ta nhập của Vân Nam Trung Quốc chừng 15-18 tấn tam thất để rồi lại xuất sang Hồng Kông.
2. Gần đây mới bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong nước làm thuốc bổ như vị nhân sâm cho nên có tên nhân sâm tam thất hay sâm tam thất.
• Ngoài vị tam thất chính kể trên trong nhân sâm còn dùng rễ một cây nữa với tên thổ tam thất hay tam thất. Cây này đã được xác định là Gynura segetum (Lour.) Merr. hoặc Gynura pinnatifida thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Trồng ở đồng bằng cũng được.
• Thổ tam thất là một loại cỏ sống lâu năm, cao chừng 6-9cm, rễ và lá đều mềm, có nhiều đám đốm tím. Lá to có những thuỳ to cắt sâu, thùy hình mác, mép có răng cưa. Mùa thu ra cụm hoa hình đầu. Hoa hình ống màu vàng. Lá và rễ dùng làm thuốc cầm máu như vị tam thất. Có khi dùng chữa rắn cắn
• Một cây thuộc họ Gừng Zingiberaceae loài Stahlianthus thorelii Gagnep. có thân rễ nhỏ cũng được bán với tên tam thất. Cần chú ý tránh nhầm lẫn, nhất là mua giá quá đắt một cây trồng rất dễ, ít giá trị
• Còn một cây nữa là tam thất Vũ diệp (Panax bipinnafidus).

Nguồn Tracuuduoclieu.vn và Thaythuoccuaban.com

Ứng dụng dược liệu

Công dụng: Chữa thổ huyết, chảy máu cam, lỵ ra máu, đẻ xong máu hôi không sạch, ung thũng, bị đòn tổ thương.